Nhà văn Nam Hà và bài thơ vỡ lòng của tôi

Không chỉ là sáng tạo văn chương, tác phẩm của nhà văn Nam Hà đích thực là những trải nghiệm thật, là đời sống thật, đẫm chất nhân văn với những khát vọng trong khét lẹt mùi khói súng...

 

Tôi là thằng bé học hành rất cà chớn ngay từ buổi đầu tiên. Hồi 5 tuổi, nghe cậu Thành nhà kế bên (đang học lớp 6 miền Bắc) xúi, tôi bỏ học mẫu giáo đi mót lúa. Ham mò cua bắt ốc, tôi nổi tiếng khắp xứ Kẻ Ngù, tức làng Trung Lễ, Đức Thọ, Hà Tĩnh với biệt danh "chim... chấm bùn", quên béng mất chuyện đi học. 

 

Khi lũ bạn mẫu giáo cùng tuổi kéo nhau vào lớp vỡ lòng (tương đương lớp 1 bây giờ), chúng có sang nhà rủ tôi. Bắt cào cào châu chấu và dang nắng, lội bùn, gỡ đỉa có vẻ thích hơn, tôi bảo: "Bây học trước đi, choa từ từ".

 

Bọn bạn cùng tuổi học xong nửa lớp vỡ lòng thì bố tôi từ miền Nam về phép. Viết một chữ lên vỏ bao thuốc lào Vĩnh Bảo, ông hỏi tôi: "Chữ chi đó?". "Thuốc lào", tôi trả lời ngay không cần suy nghĩ và nhận ngay một tát tai tóa đom đóm. 

 

Xót ông con lêu lổng, nhất là không chấp nhận nổi chuyện cả bố lẫn mẹ đều là nhà giáo mà thằng con 6 tuổi lại không biết chữ, ông xách tai tôi vào miền Nam, nơi ông đang dạy Triết - Kinh tế chính trị tại Trường Cao đẳng Sư phạm Thuận Hải. 

 

Thật ra chuyến hành phương Nam đầu tiên, tôi không đi với bố. Ông hết phép, đi trước, chú Xuân Lộc, phóng viên thường trú Báo Nhân dân ở Thuận Hải đưa tôi vào sau. 

 

Suốt chuyến đi, trên tàu Thống Nhất, tôi cứ vung vẩy nghịch khẩu K59 nặng trịch đã tháo đạn của chú Xuân Lộc, mồm thì hỏi không kịp khép: "Đây là đâu hả cô/ chú/ bác/ o...?" rồi "Sa Huỳnh đạ phại là miền Nam chưa?"...

 

Vô tháp Chàm (Thuận Hải) khi đã sắp hết học kỳ II của năm học, tôi cũng không đến trường theo lớp được nữa. Người thầy đầu tiên trong đời chính là bố tôi. Là “giáo viên chủ nhiệm” kiêm “phụ huynh” của lớp học tại gia trong khu tập thể giáo viên, một thầy một trò, ông đặc biệt khó tính. 

 

 

Sau khoảng 10 ngày, thuộc 24 chữ cái, 10 con số, bố tôi ra cho tôi 100 bài toán cộng - trừ, nhân - chia, tìm x, tìm y đơn giản và quẳng cho tôi tập thơ Khu VI yêu thương, coi đó là giáo trình năm thứ nhất tiểu học để tôi vừa tập đọc, vừa tập viết, vừa học văn chương, lịch sử và... chính trị.

 

Sau hơn nửa năm, hết hè năm 1979, quay lại miền Bắc, tôi nhảy ngang vào học lớp 2, trong khi đám bạn học xong vỡ lòng trước thì theo "đúng quy trình", mới vào lớp 1 hệ 10 năm. Thầy Lê Bô, hiệu phó cấp I trường làng là người kiểm tra trình độ để xếp lớp cho tôi. Thử đủ thứ, từ tập đọc, viết chính tả, văn tả cảnh, viết thư cho đến giải toán... 

 

Xong, ông ấy bảo: "Hấn tóm (gầy) như con dam (cua đồng), nhỏ như cấy kẹo, học lớp 2 là vưa (vừa). Chớ trình độ thì cho học lớp 4, hấn cũng học được, nỏ hại (không phải lo lắng)". 

 

Tất nhiên, thầy Lê Bô đã nói thì ban giám hiệu và các thầy cô khác đồng ý ngay. Nổi tiếng kiêu ngạo, trong một buổi chào cờ, thầy Lê Bô từng tuyên bố về bản thân trước toàn trường: "Tôi giỏi gần như Lê Quý Đôn" (!)

 

Sao cũng được, tôi cũng chẳng quan tâm lắm chuyện bạn bè phải mất thì giờ học vỡ lòng và lớp 1 mất những 2 năm trong khi mình chỉ mất 6 tháng. Trường xếp lớp nào, tôi học lớp nấy. Đã thuộc cả bài thơ dài dằng dặc của ông nhà văn Nam Hà thì sá gì chuyện ngồi lớp nào.

 

Tôi nhớ rất rõ, trong tập thơ Khu VI yêu thương, bài Chúng con chiến đấu cho người sống mãi, Việt Nam ơi! của nhà thơ Nam Hà không mang tựa ấy. Nó có tên làBài thơ Đất Nước. Đó cũng là bài thơ dài nhất tập thơ (ngang với bài Anh Pi Năng Tắc). 

 

Vì dài nên tôi phải chép nhiều lần - một cách khổ sở, bỏ lỡ không ít đận đi chơi với đám bạn quần cộc, chân trần, thò lò mũi xanh - cho nên tôi thuộc làu. Cái tên tác giả, vì thế, cũng nằm lại trong óc tôi từ bé.

 

Ba chục năm sau tôi mới biết nhà văn Nam Hà tên thật là Nguyễn Anh Công, sinh năm 1933 tại Đô Lương, Nghệ An. Ông là đại tá, nhà văn quân đội. 

 

Thời chiến tranh, ông sống, chiến đấu và sáng tác cả chục năm ròng ở khu vực miền Đông Nam Bộ, từng nhiều năm lăn lộn các chiến trường, chiến khu Bác Ái, Anh Dũng (tỉnh Thuận Hải), vùng Cam Ranh - Khánh Vĩnh - Khánh Lê (tỉnh Phú Khánh). 

 

Thời đó (trước 1975), tất cả những vùng này đều nằm trong địa giới hành chính tỉnh Thuận - Lâm (tức Thuận Hải và Lâm Đồng sau này) theo quy định của phía Chính phủ lâm thời Cộng Hòa miền Nam Việt Nam. Đó cũng là  nơi mà tôi bắt đầu lớn lên, ngập ngừng với những i tờ con chữ đầu tiên của cuộc đời. 

 

Ông đã sống một quãng thời gian rất dài trong rừng già Nam Trường Sơn, đồng cam cộng khổ, sẻ chia bom đạn rất lâu cùng đồng bào dân tộc Kho, Rag-lei vùng Khu VI trước khi tiến xa hơn xuống khu vực miền Đông đất đỏ, vùng chiến khu Tân Uyên thuộc Bình Dương và áp sát Sài Gòn...

 

Người thì không biết nhưng tác phẩm của ông thì tôi đọc hình như không sót cuốn nào. Tất nhiên, nhớ thì không hết, chỉ một số cuốn: Trở lại Bác Ái, Mùa rẫy, Mặt trận Đông Bắc Sài Gòn, Chị tham mưu trưởng, Đất miền Đông, Trong vùng Tam Giác Sắt, Trận Xuân Phong và hai tập tiểu thuyết gần nhất Ngày rất dài (2001)...

 

Ông viết nhiều, viết đều, viết khỏe, tác phẩm dày dặn và phong phú, từ tiểu thuyết, truyện ngắn, truyện ký và thơ - khá nhiều thơ. Ông là một một nhà văn mang áo lính có sáng tác trung thành với thiên chức “ghi biên bản chiến tranh”. 

 

Tác phẩm của ông đã giành nhiều giải thưởng văn chương trong suốt nửa thế kỷ qua. Bản thân nhà văn cũng đã được nhà nước ghi nhận bằng tấm huân chương Độc lập cao quý. 

 

Đọc ông, tôi và nhiều thế hệ người đọc khác đã từng rất say mê cuốn Trong vùng Tam Giác Sắt (tiểu thuyết 2 tập, viết về chiến trường Bến Cát - Tân Uyên - Lai Khê, tỉnh Bình Dương ngày nay). 

 

Không chỉ là sáng tạo văn chương, tác phẩm của ông đích thực là những trải nghiệm thật, là đời sống thật, đẫm chất nhân văn với những khát vọng trong khét lẹt mùi khói súng...

 

Trong đời, tôi chỉ say mê đọc mà chưa từng gặp ông. Và giờ, ngày 19-5-2018, ông đã ra người thiên cổ, thọ 86 tuổi. Đành, đời người có sinh có tử. Chỉ là tôi nhớ ông vì tôi nhớ tuổi thơ tôi. Dẫu sao, bài thơ dài như đất nước của ông cũng là bài học vỡ lòng của tôi. 

 

Dù muốn hay không, tôi cũng đã từng vịn vào câu thơ của ông mà trưởng thành tri thức, mà khôn lớn, mà say mê rồi trở thành kẻ hậu sinh dan díu với nghiệp cầm bút. Tôi đã đọc, đã thuộc lòng bài thơ ông rứt ruột mà viết từ khi không hề hiểu, không chắc đã hiểu hết. Tôi quên làm sao được. 

 

Không quên, nhất là khi bài thơ của ông gắn với sự học không hề đúng quy trình của tôi, gắn với cuộc đời ưa xê dịch và tất nhiên cũng chẳng bao giờ đúng quy trình của tôi...

 

Đi học trễ 1 năm, tôi vẫn tốt nghiệp trung học sớm 1 năm, vì học hệ 12 năm nhưng chỉ tốn 10 năm. Nói chung, với tôi, đọc ông Nam Hà, nhất là đọc thơ, rất có lợi cho việc học!

 
Nhà văn Nam Hà (giữa) trong một chuyến thu thập tài liệu chiến tranh.

 

Nguyên văn trong trí nhớ 40 năm của tôi, bài thơ ấy thế này:

 

BÀI THƠ ĐẤT NƯỚC

Đường dài đi giữa Trường Sơn


Nghe vọng bài ca đất nước

 

Đất Nước


Bốn ngàn năm không nghỉ


Những đạo quân song song cùng lịch sử


Đi suốt thời gian, đi suốt không gian


Sừng sững dưới trời anh dũng hiên ngang

 

Đất Nước


Của những câu chuyện làm ta rưng rưng nước mắt


Đã trở thành những bài ca không bao giờ tắt


Trên mỗi con đường mỗi thôn xóm ta qua


Từ non ngàn cho tới biển xa

 

Đất Nước


Của thơ ca


Của bốn mùa hoa nở


Đọc trang Kiều tưởng câu hát dân gian


Nghe xôn xao trong gió nội mây ngàn

 

Đất Nước


Của những dòng sông


Gọi tên nghe mát rượi tâm hồn


Ngọt lịm những giọng hò xứ sở


Trong sáng như trời xanh, mượt mà như nhung lụa

 

Đất Nước


Của những người mẹ


Mặc áo vá vai


Hạt lúa củ khoai


Bền bỉ nuôi chồng, nuôi con chiến đấu

 

Đất Nước


Của những người con gái con trai


Đẹp như hoa hồng cứng hơn sắt thép


Xa nhau không hề rơi nước mắt


Nứơc mắt để dành cho ngày gặp mặt

 

Đất Nước


Của Bác Hồ


Của óc thông minh và lòng dũng cảm


Của những đèn pha cách mạng


Soi sáng chân trời xuyên suốt đại dương

 

Ôi tuổi thanh xuân


Mang bốn ngàn năm lịch sử trong tim


Ta sung sướng được làm người con Đất Nước


Ta băng tới trước quân thù như triều như thác


Ta làm bão, làm dông


Ta lay trời chuyển đất


Ta trút hờn căm để làm nên những vinh quang bất diệt


Giáng xuống quân thù như sấm sét không nguôi


Sức mạnh bốn ngàn năm đã biến thành bão lửa ngút trời

 

Đất Nước


Ta hát mãi bài ca Đất Nước


Cho tuổi thanh xuân sáng bừng lên như ngọc


Cho mắt ta nhìn tận cùng trời


Và cho chân ta đi tới cuối đất


Ôi! Tổ quốc mà ta yêu quý nhất


Chúng con chiến đấu cho Người sống mãi,


Việt Nam ơi!

Nam Hà - 1966

Chép lại bài thơ, tôi chỉ muốn chúc ông đi thanh thản. Cũng giống như tuổi thơ tôi đã rời đi lâu lắm rồi, dù có muốn cũng không níu thời gian quay lại được... 

 

Theo ANTGCT

Lượt xem: 231
Nguồn:tusachtrithuc.org Sao chép liên kết
ĐĂNG KÝ BẢN TIN
Thích viết

Cái gì càng ngắm càng yêu

Cái gì lột tả bao điều yêu thương

Dắt xuân ngọn cỏ tứa sương

Mắt tròn lúng liếng rằng em thương chàng

Hương trời hương đất miên man

Càng yêu, càng ngắm, càng làm bừng hoa

Ở trên khuôn mặt em ta

Rộn xuân đôi má như là gấc nung

Biết em, em đã thẹn thùng

"Anh mà ngắm nữa!

Em ngừng: ... yêu anh!"

"Thôi thôi anh lỗi rành rành

Chỉ tại muốn biết yêu anh thế nào!"

Ánh mắt san sẻ khát khao

Và trao chia gửi. Thế nào là yêu!

CÂU CHUYỆN XUẤT BẢN

NXB Kim Đồng - đơn vị xuất bản cuốn truyện tranh “Anh hùng Héc-quyn” - thừa nhận sách có một số nội dung, hình ảnh chưa phù hợp độc giả Việt Nam.

Gửi các thắc mắc của bạn về xuất bản để được tư vấn miễn phí

Dấu * là phần không được để trống
ĐĂNG KÝ BẢN TIN