
Người dân trẩy hội Am Tiên.
Nằm ở độ cao 538m so với mực nước biển, quanh năm bảng lảng khói sương và bốn bề núi non chầu bái, khiến cho cuộc hành hương của khách thập phương về với địa danh này có thêm nhiều ý vị, vừa thành kính vừa hân hoan. Từng đoàn người - đủ cả nam thanh nữ tú, ông già bà cả, trung niên và trẻ nhỏ - bất chấp cái ẩm ướt và lạnh giá, kết thành một đoàn nối gót nhau đi vòng quanh huyệt đạo cho đủ “nam 7 nữ 9”. Bởi chỗ đứng thì ít mà chân người thì nhiều, nên thay vì chen lấn để vào bằng được trung tâm huyệt đạo, nhiều bản hội chọn đứng bên ngoài để cầu vọng, bái vọng. Tiếng lầm rầm khấn vái, tiếng nói cười, tiếng bước chân lẫn trong màn sương sớm nặng trĩu và khói hương nghi ngút, khiến không khí lễ lạt càng thêm đậm đặc.
Nếu tất cả dừng ở khung cảnh ấy thì đã thật tốt đẹp. Đáng tiếc, vẫn còn không ít hành vi phản cảm khiến người có tâm không khỏi ngán ngẩm. Sau một hồi khấn vái, cầu xin mong cho đủ đầy tiền tài, sức khỏe, thành đạt, an khang..., người ta đã ngay lập tức cười nói bỗ bã như đang đứng giữa chốn không người. Rồi có bà, có chị nhìn thoáng cũng biết là “người có điều kiện” bởi cách ăn mặc, phục sức, trang điểm bắt mắt thế nhưng ý thức lại chẳng bằng trẻ mầm non. Họ ăn uống, nói cười và vô tư xả rác ngay dưới chân huyệt đạo, thánh thần. Nếu có người nhắc nhở ý tứ rằng “thùng rác chỉ cách đó vài ba bước chân”, nhưng cũng chỉ nhận được cái nhìn hằn học theo kiểu “không phận sự, miễn bàn”! Am Tiên khai hội 2018 có không ít sự đổi mới tích cực. Dễ thấy nhất là an ninh trật tự được chính quyền địa phương và ban quản lý di tích chú trọng; song song với công tác vệ sinh môi trường được cải thiện, đã góp phần giảm thiểu sự nhếch nhác do rác thải và đường đất lầy lội. Tuy nhiên, chính quyền hay ngành chức năng dẫu có cố gắng đến mấy cũng chẳng thể bao quát hết hành vi của hàng ngàn du khách. Vậy nên, nếu chỉ một phần trong số họ cứ vô tư ăn uống, x 7fe8 ả rác và nói cười sỗ sàng thì còn đâu văn hóa chốn tâm linh?
Du khách đến Phủ Na, sau khi vãn cảnh, dâng hương cầu tài, cầu lộc, đa phần đều muốn xin cho được “nước may mắn”. Tương truyền, Phủ Na có một mạch nước ngầm bắt nguồn từ dãy Ngàn Nưa, chất nước trong vắt, ngọt mát có thể mang lại may mắn và tài lộc cho những ai chạm vào. Vậy là, thay vì chỉ hứng chút nước để rửa mặt, rửa tay để cầu điềm may, nhiều người sắm cả can to, can nhỏ rồi chen lấn để lấy cho thật nhiều nước. Nhằm tránh tình trạng du khách giành giật, xô đẩy, chính quyền xã Xuân Du (huyện Như Thanh) buộc phải ngăn mạch nước và dẫn nước vào ống dẫn để khách đứng trên bờ có thể lấy nước. Biết vậy là cần thiết, nhưng thật đáng tiếc cho một cảnh quan đẹp - bởi lòng tham và sự mê muội của con người - mà không được “sống” đúng giá trị của nó. Nước thần thánh, ví như vài giọt Cam Lộ của đức Quan Thế Âm Bồ Tát có thể cứu khổ nghìn vạn chúng sinh. Còn nếu cứ hứng cho đầy cả can, cả vại thì liệu rằng có bao nhiêu phép màu sẽ xảy đến? Thế mới nói, nhiều nào hẳn đã là hay.
...
Vài năm trở lại đây, câu chuyện văn hóa lễ hội luôn là chủ đề nóng trên nhiều phương tiện truyền thông. Không ít chuyên gia, nhà quản lý văn hóa đã “đăng đàn” để nói về tình trạng này, với cả mặt tích cực và tiêu cực của nó. Đồng thời, để có một mùa lễ hội lành mạnh, văn minh, nhiều văn bản có liên quan đến công tác quản lý, tổ chức lễ hội, tuyên truyền, giáo dục, nâng cao ý thức cộng đồng khi tham gia lễ hội đã được Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch, chính quyền các địa phương ban hành, triển khai và ít nhiều mang lại kết quả tích cực. Tuy nhiên, băn khoăn không phải đã hết. Nhiều người đang đặt câu hỏi, phải chăng đã và đang có sự thay đổi về giá trị, quan niệm hay ý thức, tâm thế của những người đi lễ hội hiện nay? Bởi, có thực tế là người hành hương thì đông, thế nhưng, số hiểu biết về di sản và văn hóa hành hương lại đang thiếu hụt trầm trọng. Nhiều người hồn nhiên cầu khấn, xin vay nhưng không hiểu nhiều, thậm chí là mờ mịt thông tin về nhân vật được thờ phụng.
Ngày nay, không ít người đi lễ hội không phải để vãn cảnh, dâng hương mong được bình an, thanh thản, mà còn mang cả “tư duy mua bán” vào đền miếu, chùa chiền. Với suy nghĩ lễ càng to thì càng được phù hộ, cầu càng được nhiều, vậy là họ vô tư “mặc cả” với thần thánh bằng lễ lạt đuề huề, vàng mã, gạo muối. Chưa hết, nhiều người đi chùa, đi đền còn duy trì thói quen rải tiền lẻ một cách vô tội vạ, bất kể là ban thờ, chân tượng, gốc cây, linh vật như một cách thể hiện “lòng thành”. Song, thực chất đó là hành vi hết sức phản cảm, làm mất đi tính tôn nghiêm nơi thờ tự... Có cảm giác như, con người đang tin vào điều họ muốn tin hơn là bản chất của niềm tin - tín ngưỡng mà họ đang theo đuổi? Cái tâm thế đám đông trong lễ hội có sức ảnh hưởng ghê gớm đến nhận thức, thái độ và hành vi con người. Bởi vậy mới có những chuyện cướp phết, tranh ấn, đốt vàng mã, rải tiền lẻ, rải muối gạo... diễn ra ở nhiều lễ hội trong cả nước. Những hành vi và lối suy nghĩ có phần lệch lạc ấy đang từng ngày làm biến chất tín ngưỡng và làm méo mó một nét văn hoá đẹp của dân tộc.
Từ xưa, lễ hội được nảy mầm và sinh trưởng trong cộng đồng, mà phần đa là các cộng đồng nhỏ làng, xã và phần nhỏ còn lại là các lễ hội cấp vùng, cấp tỉnh và cấp quốc gia. Bởi cộng đồng cho con người “diện mạo” là gốc gác, bản quán, sự tự tôn, các truyền thống..., do đó, mỗi người đều khuôn vào và coi trọng các giá trị đã làm nên con người mình. Tham gia lễ hội, dù trực tiếp hay gián tiếp, luôn là vinh dự, là trách nhiệm đầy tự hào. Tính thiêng, sự kính ngưỡng và niềm tin là sợi dây giữ họ trong khuôn khổ của những lễ nghi, trò chơi, trò diễn. Đây cũng chính là “năng lực mềm” của lễ hội, có khả năng áp chế các hành vi phản cảm, sai lệch của con người khi tham gia sinh hoạt văn hóa chung này. Vượt ra khỏi khuôn khổ cộng đồng nhỏ hẹp, ngày nay, nhiều lễ hội và di tích đang trở thành điểm đến của khách muôn phương. Song, cũng từ đó mà cộng đồng – với khả năng cố kết, điều chỉnh hành vi con người - dường như đang trở nên “bất lực” trong khả năng “quản” đối tượng được gọi là chủ thể văn hóa?
Bảo tồn, phát huy giá trị của lễ hội, đồng thời, giảm thiểu tối đa những mặt trái và nâng cao ý thức của người tham gia lễ hội, đang được đặt ra một cách cấp thiết cho ngành chức năng và chính quyền nhiều địa phương. Song, việc áp đặt “công cụ quyền lực” Nhà nước là các văn bản quy định, chế tài xử lý nhằm quản lý lễ hội hiện nay, lại đang đặt ra 2 vấn đề, vừa thuận, vừa nghịch. Đó là khả năng của công cụ ấy trong việc tạo ra môi trường lễ hội lành mạnh, văn minh; đồng thời, tạo ra thế cân bằng, hài hòa giữa Nhà nước – cộng đồng, truyền thống – hiện đại. Tuy nhiên, một nghịch lý, như nhiều nhà nghiên cứu văn hóa đã chỉ ra, đó là việc áp đặt các mệnh lệnh hành chính trong sinh hoạt tín ngưỡng là không dễ, thậm chí có thể “khéo quá hóa vụng”. Chính vì lẽ đó, cần hài hòa giữa công cụ quản lý Nhà nước với phát huy “năng lực mềm” của văn hóa, nhằm “đánh sâu” và làm chuyển biến nhận thức, hành vi và tình cảm của người dân. Từ đó, trả lại đúng vị thế và giá trị của lễ hội trong đời sống văn hóa – tâm linh – tinh thần cộng đồng, dân tộc.
Theo Báo Thanh Hóa